Ai phát minh ra Tiếng Việt? Nguồn gốc Tiếng Việt
Tiếng Việt là ngôn ngữ được sử dụng bởi người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu người Việt kiều. Tiếng Việt đồng thời là ngôn ngữ thứ 2 của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã được công nhận tại Cộng hòa Séc.
Tiếng Việt có lịch sử phong phú và đa dạng, chịu ảnh hưởng của nhiều ngôn ngữ và văn hóa khác nhau. Vậy ai phát minh ra Tiếng Việt? Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về nguồn gốc tiếng Việt, ai phát minh ra tiếng Việt trong lịch sử
Nguồn gốc tiếng Việt
Theo nhiều nghiên cứu khoa học, tiếng Việt (cùng với dân tộc Việt) có nguồn gốc bản địa. Đây là ngôn ngữ đã được xuất hiện từ rất sớm trên lưu vực sông Hồng và sông Mã, trong 1 xã hội có nền văn minh nông nghiệp phát triển.
Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, tiểu chi Việt Chứt, nằm trong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía đông của ngành Môn-Khmer, họ Nam Á. Trong nhóm Việt-Mường, ngoài tiếng Việt và tiếng Mường ra thì còn có tiếng Nguồn cũng được coi là ngôn ngữ bà con gần nhất với tiếng Việt.
Trong tiểu chi Việt Chứt, ngoài nhóm Việt-Mường ra thì còn có nhóm Pọng Chứt gồm các ngôn ngữ Chứt, Pọng ở vùng núi các tỉnh phía nam khu IV và các tiếng như Ahơ, Maleng, Thà Vựng ở Lào. Đây được xem là những bà con xa của tiếng Việt.
Theo GS.TS Nguyễn Thiện Giáp là Ủy viên Hội đồng chức danh giáo sư ngành Ngôn ngữ học, Proto Việt Chứt, tức cái ngôn ngữ mẹ, chung cho cả 2 nhóm Việt-Mường và Pọng Chứt, không tách trực tiếp được từ proto Mon-Khmer mà phải tách ra từ khối proto Việt Katu. Thời gian chia tách này xảy ra cách đây đã hơn 4000 năm qua, địa bàn cư trú ban đầu của người dân nói tiếng proto Việt Chứt là vùng kéo dài từ khu vực miền núi Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị sang đến tận Trung Lào.
Ai phát minh ra tiếng Việt?
Tiếng Việt là ngôn ngữ do chính người Việt cổ chúng ta sáng tạo ra và sử dụng từ ngàn đời trước. Dù trải qua một thời gian dài chịu sự xâm lược của giặc ngoại xâm, người dân vẫn sử dụng tiếng Việt làm ngôn ngữ riêng và không để tiếng nói của dân tộc bị đồng hóa đi. Hơn bốn nghìn năm đã trôi qua, tiếng Việt của người Việt Nam ta không hề bị mai một hay mất đi mà càng phong phú và giàu từ vựng hơn.
Tuy nhiên, nếu như câu hỏi là ai phát minh ra chữ viết cho tiếng Việt, thì câu trả lời sẽ phức tạp hơn. Trong lịch sử, tiếng Việt đã được ghi lại bằng nhiều hệ thống chữ viết khác nhau, như chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latinh (chữ Quốc ngữ). Mỗi hệ thống chữ viết đều có những ưu và nhược điểm riêng, và đều có những người đóng góp quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển.
Chữ Hán
Chữ Hán là hệ thống chữ viết của người Hoa, được sử dụng để ghi lại tiếng Việt từ thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN – 938) cho đến thế kỷ 19. Chữ Hán được coi là chữ viết chính thức của các triều đại phong kiến Việt Nam, được sử dụng trong các văn bản hành chính, quân sự, giáo dục, văn học…
Chữ Hán có ưu điểm là có tính logic cao, có thể biểu đạt được nhiều khái niệm phức tạp và trừu tượng. Tuy nhiên, chữ Hán cũng có nhược điểm là khó học, khó nhớ, khó viết và không phản ánh được âm thanh của tiếng Việt.
Trong quá trình sử dụng chữ Hán để ghi lại tiếng Việt, có nhiều nhà văn hóa và giáo dục đã có công lao to lớn. Một số người nổi bật có thể kể đến như:
- Lý Thường Kiệt (1019 – 1105): Tổ sư quân sự và văn học của Việt Nam. Ông là tác giả của bài thơ Nôm Na Sứ Quân (Tống Sứ Quân), được coi là bài thơ đầu tiên của văn học Việt Nam.
- Nguyễn Trãi (1380 – 1442): Nhà quốc sư và danh nhân văn hóa của Việt Nam. Ông là tác giả của Quốc Âm Thi Tập (Tập Thơ Quốc Âm), một tác phẩm văn học xuất sắc bằng chữ Hán.
- Lê Quý Đôn (1726 – 1784): Nhà bác học và văn hóa toàn diện của Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều công trình khoa học và văn học quý giá bằng chữ Hán, như Phủ Biên Tạp Lục (Lục Bát Biên Giới), Kinh Dịch Toàn Thư (Toàn Thư Kinh Dịch),…
Xem thêm:
Vua Minh Mạng là ai? – Người đứng đầu triều Nguyễn
Vua Quang Trung Tên Thật Là Gì? Sự Thật Về Vị Vua Việt Nam
Chữ Nôm
Chữ Nôm là 1 hệ thống chữ viết do người Việt sáng tạo ra, dựa trên chữ Hán nhưng có thêm các ký hiệu để biểu thị âm thanh của tiếng Việt. Chữ Nôm được sử dụng để ghi lại tiếng Việt từ thế kỷ 10 cho đến thế kỷ 19, song song với chữ Hán.
Chữ Nôm có ưu điểm là phản ánh được ngôn ngữ nói của người Việt, có thể biểu đạt được những cảm xúc và tư tưởng riêng của dân tộc. Tuy nhiên, chữ Nôm cũng có nhược điểm là không có quy tắc nhất quán, khó học, khó đọc và khó soạn thảo. Nhưng chữ Nôm cũng một phần thể hiện được văn hóa lịch sử của Việt Nam trong quá khứ.
Trong quá trình sử dụng chữ Nôm để ghi lại tiếng Việt, có nhiều nhà văn hóa và giáo dục đã có công lao to lớn. Một số người nổi bật có thể kể đến như:
- Nguyễn Du (1765 – 1820): Nhà thơ vĩ đại của Việt Nam. Ông là tác giả của Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh), một tác phẩm văn học kinh điển bằng chữ Nôm.
- Hồ Xuân Hương (1772 – 1822): Nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều bài thơ bằng chữ Nôm, có nội dung táo bạo và hóm hỉnh, phản ánh cuộc sống xã hội thời bấy giờ.
- Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888): Nhà văn và y sĩ của Việt Nam. Ông là tác giả của Lục Vân Tiên (Tiên Lục Vân), một tác phẩm văn học nổi tiếng bằng chữ Nôm.
Chữ Latinh (chữ Quốc ngữ)
Chữ Latinh (chữ Quốc ngữ) là hệ thống chữ viết dùng bảng chữ cái Latinh để ghi lại tiếng Việt, có thêm các dấu thanh và dấu vần để biểu thị âm điệu và âm vị. Chữ Latinh được sử dụng để ghi lại tiếng Việt từ thế kỷ 17 cho đến nay, trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam từ năm 1954. Chữ Latinh có ưu điểm là dễ học, dễ đọc, dễ viết và dễ soạn thảo. Tuy nhiên, chữ Latinh cũng có nhược điểm là không phản ánh được một số âm thanh đặc trưng của tiếng Việt, như âm cuối -ch, -nh, -ng.
Trong quá trình sử dụng chữ Latinh để ghi lại tiếng Việt, có nhiều nhà văn hóa và giáo dục đã có công lao to lớn. Một số người nổi bật có thể kể đến như:
- Alexandre de Rhodes (1591 – 1660): Linh mục Dòng Tên người Pháp, là người đầu tiên sử dụng chữ Latinh để ghi lại tiếng Việt trong cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển An Nam Bồ La Latinh) năm 1651.
- Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898): Nhà bác học và văn hóa của Việt Nam. Ông là người đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện và phổ biến chữ Latinh cho tiếng Việt, cũng như trong việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử, địa lý, văn hóa Việt Nam.
- Nguyễn Khuyến (1835 – 1909): Nhà thơ và giáo dục của Việt Nam. Ông là người ủng hộ chữ Latinh cho tiếng Việt, và là người đầu tiên sáng tác thơ bằng chữ Latinh, như bài thơ Tự Tình (Tự Tình) năm 1890.
Đó là thông tin về ai phát minh ra Tiếng Việt của CakhiaTV mang đến cho bạn đọc. Thông tin này sẽ phần nào giúp bạn hiểu được lịch sử và văn hóa của Việt Nam trong quá khứ.